Tư duy của người đặt viên gạch đầu tiên chuyển dịch phương thức tích tụ ruộng đất

Hà Nguyễn 19:00 08-12-2020

Nếu như ông Kim Ngọc được coi là người đặt viên gạch đầu tiên chuyển dịch phương thức sản xuất của cả nền nông nghiệp những năm 1960-1970 với mô hình khoán hộ thì những thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 này có thể ghi tên bà Thái Hương với tư cách người đặt viên gạch đầu tiên chuyển dịch tư duy làm nông nghiệp hiện đại, tạo sự thay đổi căn bản về cách làm nông nghiệp thông qua việc tích tụ ruộng đất, ứng dụng công nghệ cao – công nghệ 4.0 trong nông nghiệp với mô hình chăn nuôi bò sữa tập trung.

Đó là nhận định của nhiều chuyên gia nông nghiệp, kinh tế khi nói về bà Thái Hương- Nhà sáng lập tập đoàn TH. Nhận định này càng được làm sáng rõ từ câu chuyện của người đã trải cả quãng đời 10 năm đi cùng TH – khi TH còn là một con số 0. Người đó là ông Lê Đức Trường – Nguyên Bí thư Huyện ủy Nghĩa Đàn.

Bà Thái Hương vừa được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2020. Phẩm chất anh hùng của bà thể hiện ở tầm nhìn dài hạn, tư duy vượt trội trong nhiều lĩnh vực y tế, giáo dục, thực phẩm và đã đạt được nhiều thành tựu nổi trội trong các lĩnh vực này; đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và chế biến sữa. Với ngành sữa, bà được đánh giá đã làm cuộc cách mạng sữa tươi sạch; đưa thương hiệu TH trở thành thương hiệu quốc gia vươn tầm quốc tế nhờ tính nhân văn và chất lượng sản phẩm. Bà đại diện cho tỉnh Nghệ An tham dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc diễn ra ngày 9,10.12.

Lời “lôi kéo” từ người lãnh đạo địa phương

Nghĩa Đàn vào một buổi chiều tháng 8 nắng chói chang. Phải mất vài lần hẹn, tôi mới gặp được ông Lê Đức Trường bởi dù đã nghỉ hưu, ông vẫn đi liên tục, vẫn trực tiếp đóng góp sức mình vào sự phát triển của nền kinh tế – xã hội huyện. Cuộc gặp diễn ra tại Văn phòng Điều hành Công ty THMF ở Nghĩa Đàn, nơi ngày nay đã nổi tiếng nhờ cánh đồng hoa hướng dương lớn nhất cả nước và đặc biệt là sự hiện hữu của cụm trang trại bò sữa tập trung công nghệ cao lớn nhất châu Á.

“Bản thân cái khu hành chính của TH mà chúng ta đang ngồi bây giờ, ngày xưa là khu chuồng bò thuộc dự án chăn nuôi của sở Nông nghiệp Nghệ An. Bên này là trại chăn nuôi bò thịt, còn phía bên kia là khu vực vườn cam mẫu sau cùng của nông trường 19/5”, nguyên Bí thư Huyện ủy mở đầu cuộc trò chuyện với thông tin mà ngay cả nhân viên TH cũng ít người biết. Khó mà tin được, khu nhà khang trang dành cho nhân viên TH làm việc với đầy đủ tiện nghi hiện đại, và thậm chí cảnh quan còn không khác gì khu nghỉ dưỡng, lại được cải tạo từ một khu chuồng bò cũ.

“Nó cũng khó tin không khác gì chuyện Nghĩa Đàn đã thay đổi thế nào từ sau khi dự án này xuất hiện. Nhưng tất cả đều là sự thực”, ông Trường nói tiếp.

Lê Đức Trường – Nguyên Bí thư Huyện ủy Nghĩa Đàn tại khuôn viên Văn phòng Điều hành Công ty THMF ở Nghĩa Đàn, Nghệ An.

Những năm 1960, hệ thống nông trường ở Nghĩa Đàn đã là đỉnh cao của nền kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp ở Việt Nam. Trên 9 nông trường với nguồn tài nguyên hàng trăm nghìn héc ta đất đỏ bazan quý giá bậc nhất miền Bắc, tập trung toàn bộ những hệ thống máy móc hiện đại của Liên Xô. Đã có những thời kỳ, cam xuất khẩu chủ yếu cho Liên Xô và các nước Đông Âu được trồng trên mảnh đất này. Một nền sản xuất lớn đã được hình thành từ hàng chục năm trước.

Nhưng sau 2 chu kỳ khai thác, tận dụng hoàn toàn yếu tố tự nhiên mà không có sự hoàn trả, thời kỳ rực rỡ của nông trường những năm 1970 nhanh chóng trôi qua, và đến thập niên 1980, chất lượng sản xuất đi xuống, kéo theo sự đi xuống của cả nền kinh tế địa phương. Nghĩa Đàn suốt một thời gian dài loay hoay tìm lối ra cho các nông trường quốc doanh nói riêng và cho cả nền nông nghiệp nói chung.

“Nông lâm trường hình thành và phát triển từ nhu cầu phục vụ chiến trường và tái thiết đất nước. Tuy nhiên, khi đất nước đổi mới, chuyển sang cơ chế thị trường, mô hình này bộc lộ nhiều bất cập. Bất cập nhất là tại không ít nông lâm trường, đất đai bị chia nhỏ, giao khoán cho các nông trường viên sản xuất manh mún, kém hiệu quả. Lãnh đạo các nông lâm trường đó không nghèo vì họ có tiền từ phát canh thu tô nhưng không phải nộp thuế đất, tiền thuê đất; còn Nhà nước thì thất thu”, ông Phan Đình Trạc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An (nay là Trưởng ban Nội chính Trung ương), đã nhận định như vậy tại Diễn đàn ứng dụng Nông nghiệp công nghệ cao phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua đối tác công tư năm 2012. “Vì thế, việc đổi mới nông lâm trường theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết”.

Ông Phan Đình Trạc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, nay là Trưởng ban Nội chính Trung ương đang trao đổi với bà Thái Hương tại sự kiện khánh thành Nhà máy Chế biến Hoa quả tươi và Thảo dược Vân Hồ (Sơn La) vào tháng 9/2020.

Đi cùng với lời nói, chính ông Trạc là người đã “lôi kéo chứ không chỉ là khuyến khích” doanh nghiệp như TH về Nghệ An để thay đổi hướng sử dụng đất đai, tạo ra một “cuộc cách mạng mới” đối với việc sử dụng đất nông trường quốc doanh.

Vào năm 2008, sau vụ sữa nhiễm Melamin gây hại cho trẻ em, bà Thái Hương – Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Bắc Á đã đưa ra ý tưởng gây dựng mô hình chăn nuôi chế biến sữa tươi quy mô lớn, hiện đại. Địa điểm đầu tiên được chọn không phải là Nghệ An mà là Hòa Bình – nơi có thổ nhưỡng thích hợp cho việc nuôi bò. TH chuẩn bị dự án và nhận được sự quan tâm từ các cấp chính quyền tỉnh Hòa Bình. Nhưng cuối năm ấy, trong cuộc gặp mặt đồng hương và các doanh nghiệp của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ông Phan Đình Trạc, lúc đó là Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, đã nói với bà Thái Hương: “Là người Nghệ, sao chị không về quê hương đầu tư, đóng góp cho tỉnh nhà”.

Cảm động trước lời mời thân tình của lãnh đạo tỉnh, Nhà Sáng lập TH đã tìm về với ơn nghĩa quê hương.

Cuộc cách mạng sử dụng đất cho nông trường quốc doanh

Đứng trên cao nguyên Phủ Quỳ ngút ngàn, phóng tầm mắt là những núi đồi thoai thoải, điểm xuyết những lòng hồ, những dòng sông uốn lượn, dưới chân là đất đỏ bazan mịn màng, phì nhiêu cây cối tốt lành, nữ doanh nhân xứ Nghệ nghẹn ngào: Không ngờ, quê mình có những nơi đẹp như vậy; nếu đưa khoa học công nghệ của thế giới về đây áp dụng, rồi trồng cỏ, nuôi bò ở đây chắc chắn thành công.

Nhưng từ quyết tâm đến việc thực hiện là cả một chặng đường gian truân. Vấn đề khó khăn nhất, nằm ở việc thuyết phục người dân trong khu vực dự án trả lại đất đang canh tác, dù đó là đất nông trường cho họ nhận khoán. Nhiều người dân không ủng hộ, bởi trong suy nghĩ của họ, khi doanh nghiệp đầu tư vào nông trường, “mảnh đất nào ngon họ sẽ lấy hết”.

Tuy nhiên, ngay từ đầu, trong văn bản cam kết của TH với tỉnh, và sau này là quyết định của Nghệ An cho dự án, đều nêu rõ nội dung như mong muốn của bà Thái Hương: “Tôi sẽ chỉ lấy những vùng đất nông trường làm không hiệu quả và làm cho nó hiệu quả bằng công nghệ”.

Với sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc và sự ủng hộ của lãnh đạo địa phương, dự án bắt tay ngay vào các giai đoạn triển khai với phương châm “vừa hành quân, vừa xếp hàng”, thu hồi đất đến đâu, san đất, dựng trang trại đến đấy. Những ngày đầu tiên, có thời điểm cứ một ngày một đêm, một trại bò mới lại mọc lên.

“Ngày ấy, bản thân lãnh đạo huyện chúng tôi cũng nhận thức được là dự án này sẽ thay đổi cả nền nông nghiệp chứ không phải chỉ thay đổi vùng đất này. Nghệ An lúc đó thu hút đầu tư chưa được nhiều. Dự án công nghiệp còn hiếm, chứ chưa kể dự án nông nghiệp, lại còn mang quy mô cả tỷ đô la. Chúng tôi xác định dự án là cú hích, đòn bẩy cho kinh tế của huyện”, ông Trường chia sẻ. “Huyện đã thành lập Ban chỉ đạo riêng cho dự án, đền bù 1.700 hộ, bàn giao cho dự án gần 3.000 héc ta. Đó là nỗ lực rất lớn bởi lúc đầu chưa thể thay đổi được nhận thức của người dân. Nhiều người dân tuyên bố họ vẫn còn thời gian hợp đồng thực hiện với các công ty nông trường, không đồng ý giao trả. Cả hệ thống chính trị khi đó đã phải vào cuộc vận động. Kết quả là công tác giải phóng mặt bằng của Nghĩa Đàn khi đó là tốt nhất không chỉ của tỉnh mà còn của cả nước”.

Nhưng bên cạnh sự ủng hộ của hệ thống chính quyền, thì điều làm thay đổi nhận thức của người dân, thúc đẩy tiến độ bàn giao mặt bằng, nằm ở cách làm của người đứng đầu TH.

Đầu tiên là chuyện đền bù hợp đồng của người nông dân với nông trường. Việc đền bù được thực hiện theo hướng dẫn của nhà nước và có công thức tính toán minh bạch, công khai. Dù đã nhận tiền đền bù nhưng người dẫn vẫn được thu hoạch nông sản trên mảnh đất đã trả lại để bán. Không chỉ đền bù theo tính toán doanh thu trên thời gian còn lại của hợp đồng, người đứng đầu TH còn chỉ đạo tính cả những công cụ sản xuất, chẳng hạn như máy bơm nước, giống cam, dưa hấu, mà người dân đã đầu tư trên mảnh đất ấy. Sau này, những chiếc máy bơm đó lại tiếp tục được người dân sử dụng để trồng cỏ, ngô, bán lại cho TH. Từ cách làm đó, nhiều gia đình đang giữ lại 5 -10 ha canh tác mà không có hiệu quả, đã tự nguyện bàn giao lại cho TH.

Trước quan ngại của người dân về việc thu hồi đất khiến họ không có việc làm, bà Thái Hương đã cho rằng đây là vấn đề căn cơ và đã có giải pháp ngay từ đầu.

“Việc giải quyết khâu lao động bị thu hồi đất đai ở các nông trường quốc doanh thì nên về Nghĩa Đàn để học hỏi. Trong suốt thời gian làm Bí thư Huyện ủy Nghĩa Đàn, tôi không nghe bất cứ người dân nào nói rằng họ bị thu hồi đất mà không có việc làm”, ông Trường chia sẻ. “85% lao động của TH là người dân trong vùng dự án. TH thu nhận toàn bộ những người đang ở trong độ tuổi lao động. 1/3 trong số 14 vạn dân của Nghĩa Đàn tham gia vào các khâu sản xuất liên quan đến dự án”.

“Ở Việt Nam có trường học nào đào tạo công nhân chăn nuôi bò sữa chuyên nghiệp không? Không có. Trong một thời gian ngắn, cùng lúc đào tạo ra hàng nghìn công nhân lành nghề, thì phải ghi công cho TH. Trong hợp đồng chuyển giao công nghệ của TH với phía Israel, có điều khoản về đào tạo con người. Sau 1 năm, các chuyên gia Israel đã giúp người nông dân trở thành công nhân thuần thục, 2 năm là giúp làm chủ công nghệ và 5 năm đã giúp nhiều người trở thành chuyên gia. Hàng nghìn người nông dân Nghĩa Đàn chính là những “sinh viên đầu tiên” ở Việt Nam được đào tạo chuyên nghiệp về chăn nuôi bò sữa công nghệ cao, và được làm việc tại TH, trên chính mảnh đất mà trước đây họ từng trồng trọt. Đó chính là một cuộc cách mạng”, ông Trường khẳng định.

Những ảnh hưởng của dự án với đời sống của người dân không chỉ dừng lại ở đó. “Những khoản đền bù lên tới 3-5 tỷ đồng lúc đó rất lớn. Dư luận bắt đầu liên tưởng tới tình trạng ở các khu công nghiệp khi người dân được đền bù sử dụng tiền đầu tư vào mua sắm cá nhân, ăn chơi hư hỏng. Chia sẻ với báo chí, tôi bảo: Những nơi xảy ra việc đó ở đâu tôi không biết, còn các đồng chí hãy về Nghĩa Đàn để xem người dân sử dụng đồng tiền đó thế nào”.

Xung quanh khu vực Nghĩa Đàn là những vùng đất rất rộng của các công ty cao su, chè thuộc địa phận Thanh Hóa vẫn chưa có người khai thác. Nhiều người Nghĩa Đàn đã dùng chính những đồng tiền đền bù thuê lại các vùng đất đỏ bazan quý giá ấy để tiếp tục canh tác, trồng dưa, cà, ổi… Người nọ học làm theo người kia, giúp cả vùng phát triển.

Không chỉ đào tạo để người dân gắn bó với dự án, TH còn cấp học bổng cho con em của người dân trong vùng. Cứ có giấy khen loại khá trở lên là các cháu được hỗ trợ thêm kinh phí học tập. Nhân viên TH thậm chí còn mở các lớp dạy tiếng Anh miễn phí buổi tối cho người dân Nghĩa Sơn, vốn trước đó còn chưa được tiếp cận với giáo dục hiện đại.

Nghĩa Đàn của 10 năm trước là vùng đất nằm trong Chương trình 135 của Chính phủ, trong đó các xã Nghĩa Lâm, Nghĩa Yên thuộc diện xã 135 (đặc biệt khó khăn), lạc hậu. Bây giờ, ở đây có chỗ chăm sóc sắc đẹp, có các quán bán đồ ăn sáng, sân chơi bóng chuyền. Những con đường đất dưới tán cao su trước đây đã được thay thế bằng đường bê tông, người dân còn tự làm những đường hoa đẹp như trong tranh.

“Có thể nói, những gì TH và chị Thái Hương đã làm với vùng đất này là một gợi ý rất lớn cho chính sách tích tụ ruộng đất, phát huy hiệu quả đất đối với các nông trường quốc doanh cả nước”, ông Trường kết luận.

“Thời gian đầu họp triển khai Dự án, người dân lo sợ mất đất đều xin bà Thái Hương hãy làm dự án ở nơi khác. Các cuộc họp đều rất ồn ào, chị Hương nghe hết. Xong chị nói: Tôi cũng là người sinh ra từ nông nghiệp, cả nhà tôi làm nông nghiệp. Bà con hãy tin. Tôi không làm được điều đó thì tôi là người rời khỏi đây.
Cảm nhận được tấm chân tình của người đứng đầu dự án, người dân dần thay đổi thái độ. Hơn nữa, khi thấy ngay sau lời nói là những hành động quyết liệt, thấy những ánh sáng hàn cả đêm tại công trường xây dựng trang trại, thấy sau mỗi đêm lại hình thành một trại bò hoàn chỉnh, người dân biết là TH làm thật và làm lớn, chứ không chỉ là làm nhỏ lẻ như mô hình nuôi bò sữa trong dân trước đây từng thất bại tại Nghĩa Đàn”.
Ông Lê Hồng Sơn (nguyên Chủ tịch UBND huyện Nghĩa Đàn) chia sẻ.